Giăng 18
18
Sự thương khó, sự chết và sự sống lại của Đức Chúa Jêsus
(18:1 – 21:25)
Đức Chúa Jêsus bị bắt
(Ma-thi-ơ 26:47-56; Mác 14:43-50; Lu-ca 22:47-53)
1Sau khi cầu nguyện, Đức Chúa Jêsus đi với các môn đồ sang bên kia suối Kết-rôn; tại đó có một khu vườn, Ngài cùng các môn đồ đi vào đó. 2Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng biết chỗ nầy vì Đức Chúa Jêsus và các môn đồ thường nhóm họp tại đây. 3Vậy, Giu-đa dẫn một toán lính cùng với thuộc hạ của các thầy tế lễ cả và người Pha-ri-si đến đó, cầm đèn, đuốc và vũ khí. 4Đức Chúa Jêsus biết tất cả những gì sẽ xảy đến cho mình, nên bước tới và hỏi: “Các ngươi tìm ai?” 5Họ đáp: “Jêsus, người Na-xa-rét.” Đức Chúa Jêsus nói: “Chính Ta đây!” Giu-đa, kẻ phản Ngài, cũng đứng đó với họ. 6Khi Đức Chúa Jêsus nói: “Chính Ta đây” thì họ đều lùi lại và ngã xuống đất. 7Ngài lại hỏi: “Các ngươi tìm ai?” Họ đáp: “Jêsus, người Na-xa-rét.” 8Đức Chúa Jêsus nói: “Ta đã bảo các ngươi, chính Ta đây. Vậy, nếu các ngươi tìm bắt Ta thì hãy để cho những người nầy đi.” 9Điều nầy ứng nghiệm lời Ngài đã nói: “Con không để mất một ai trong những người Cha đã ban cho Con.” 10Si-môn Phi-e-rơ có một thanh gươm, liền rút ra, đánh đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm, chém đứt tai phải của người nầy. Đầy tớ đó tên là Man-chu. 11Đức Chúa Jêsus bảo Phi-e-rơ: “Hãy nạp gươm của con vào vỏ! Chén mà Cha đã ban cho Ta, Ta lại không uống sao?”#Mat 26:39; Mác 14:36; Lu 22:42.
Đức Chúa Jêsus trước mặt An-ne. – Phi-e-rơ chối Chúa
(Ma-thi-ơ 26:59-75; Mác 14:55-72; Lu-ca 22:55-71)
12Lúc ấy, binh lính với viên chỉ huy và các thuộc hạ của người Do Thái bắt Đức Chúa Jêsus và trói lại. 13Trước hết, họ giải Ngài đến An-ne, vì ông là nhạc gia của Cai-phe, người đang làm thầy tế lễ thượng phẩm trong năm đó. 14Chính Cai-phe là người đã bàn với người Do Thái rằng: “Thà để một người chết vì toàn dân thì vẫn hơn.”#Gi 11:49-50.
15Si-môn Phi-e-rơ và một môn đồ khác đi theo Đức Chúa Jêsus. Môn đồ nầy quen biết thầy tế lễ thượng phẩm, nên vào với Đức Chúa Jêsus trong sân của thầy tế lễ thượng phẩm. 16Còn Phi-e-rơ thì đứng bên ngoài, gần cửa. Vì vậy, môn đồ kia, người quen biết thầy tế lễ thượng phẩm, đi ra nói với người phụ nữ canh cửa, rồi đem Phi-e-rơ vào. 17Người phụ nữ canh cửa nói với Phi-e-rơ: “Chẳng phải ông cũng là một trong các môn đồ của người ấy sao?” Phi-e-rơ đáp: “Không phải tôi.” 18Vì trời lạnh nên các đầy tớ và các thuộc hạ nhóm một đống lửa than, rồi đứng sưởi ấm. Phi-e-rơ cũng đứng sưởi với họ.
19Thầy tế lễ thượng phẩm hỏi Đức Chúa Jêsus về các môn đồ và sự dạy dỗ của Ngài. 20Đức Chúa Jêsus đáp: “Ta đã nói rõ cho thiên hạ. Ta thường xuyên dạy trong các nhà hội và đền thờ, nơi tất cả người Do Thái tụ họp, chứ Ta chẳng nói điều gì lén lút cả. 21Sao ngươi lại chất vấn Ta? Cứ hỏi những người đã nghe Ta, xem Ta đã nói gì với họ. Những người đó biết những điều Ta đã nói.” 22Khi Ngài vừa nói xong, một kẻ trong nhóm thuộc hạ đang đứng đó lấy tay tát vào mặt Ngài và nói: “Ngươi dám trả lời thầy tế lễ thượng phẩm như thế sao?” 23Đức Chúa Jêsus đáp: “Nếu Ta nói sai, hãy chỉ ra chỗ sai đi; còn nếu Ta nói đúng, tại sao ngươi lại đánh Ta?” 24An-ne sai giải Đức Chúa Jêsus vẫn đang bị trói đến thầy tế lễ thượng phẩm Cai-phe.
25Lúc Si-môn Phi-e-rơ còn đang đứng sưởi, họ hỏi ông: “Anh cũng là một trong số các môn đồ của ông ta phải không?” Phi-e-rơ chối và trả lời: “Không phải tôi.” 26Một người trong các đầy tớ của thầy tế lễ thượng phẩm, có họ hàng với người đã bị Phi-e-rơ chém đứt tai, nói: “Chẳng phải chính tôi đã thấy anh ở trong vườn với ông ta sao?” 27Phi-e-rơ lại chối một lần nữa, tức thì gà gáy.
Đức Chúa Jêsus trước mặt Phi-lát
(Ma-thi-ơ 27:1,2,11-14; Mác 15:1-5; Lu-ca 23:1-5)
28Vậy, họ giải Đức Chúa Jêsus từ nhà Cai-phe đến dinh tổng đốc. Lúc ấy vào buổi sáng sớm. Chính họ không vào trong dinh, để khỏi bị ô uế, và được ăn lễ Vượt Qua. 29Vì thế, Phi-lát đi ra, đến với họ và nói: “Các ngươi tố cáo người nầy về việc gì?” 30Họ trả lời: “Nếu người nầy không phải là kẻ làm ác thì chúng tôi không nộp cho quan.” 31Phi-lát nói với họ: “Các ngươi cứ đem ông ta đi và xử theo luật của các ngươi.” Người Do Thái thưa: “Chúng tôi không được phép xử tử bất cứ ai.” 32Điều nầy ứng nghiệm lời Đức Chúa Jêsus đã nói, khi đề cập đến việc Ngài phải chết cách nào.#Gi 3:14; 12:32. 33Phi-lát trở lại dinh tổng đốc, gọi Đức Chúa Jêsus và hỏi: “Có phải ngươi là vua dân Do Thái không?” 34Đức Chúa Jêsus đáp: “Ngươi tự mình nói điều nầy, hay có ai khác nói cho ngươi về Ta?” 35Phi-lát trả lời: “Ta có phải là người Do Thái đâu? Dân tộc ngươi và mấy thầy tế lễ cả đã nộp ngươi cho ta. Vậy ngươi đã làm gì?” 36Đức Chúa Jêsus đáp: “Vương quốc của Ta không thuộc về thế gian nầy. Nếu vương quốc của Ta thuộc về thế gian nầy thì những người theo Ta đã chiến đấu, không để Ta bị nộp vào tay người Do Thái. Nhưng vương quốc của Ta không thuộc về thế gian nầy.” 37Phi-lát nói: “Thế thì ngươi là vua sao?” Đức Chúa Jêsus đáp: “Chính ngươi nói Ta là vua. Đây là lý do tại sao Ta đã sinh ra, tại sao Ta đã giáng thế: Ấy là để làm chứng cho chân lý. Bất cứ ai thuộc về chân lý đều nghe tiếng Ta.” 38Phi-lát hỏi: “Chân lý là gì?”
Sau khi đã nói như vậy, Phi-lát lại đi ra gặp người Do Thái và nói: “Ta không tìm thấy người nầy có tội gì cả. 39Nhưng theo thông lệ của các ngươi, cứ đến lễ Vượt Qua thì ta tha cho các ngươi một tên tù. Vậy, các ngươi có muốn ta tha vua dân Do Thái cho các ngươi không?” 40Họ lại la lớn lên: “Đừng tha nó, hãy tha Ba-ra-ba!” Ba-ra-ba vốn là một tên cướp.
Currently Selected:
Giăng 18: VIE2010
Highlight
Share
Copy
Want to have your highlights saved across all your devices? Sign up or sign in
© 2010 United Bible Societies. All rights reserved.